Thứ Hai, 29 tháng 6, 2015

      CHÚ ĐẠI BI 
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni 
 1. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
 2. Nam mô a rị da 
3. Bà lô yết đế thước bát ra da 4. Bồ Đề tát đỏa bà da
 5. Ma ha tát đỏa bà da 
6. Ma ha ca lô ni ca da 
7. Án 8. Tát bàn ra phạt duệ 
9. Số đát na đát tỏa 
10.Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da
 11.Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà
 12.Nam mô na ra cẩn trì 
13.Hê rị, ma ha bàn đa sa mế 
14.Tát bà a tha đậu du bằng 
15.A thệ dựng 
16.Tát bà tát đa (Na ma bà tát đa) 
17.Na ma bà dà 
18.Ma phạt đạt đậu đát điệt tha
 19.Án. A bà lô hê 
20.Lô ca đế 
21.Ca ra đế 
22.Di hê rị 
23.Ma ha bồ đề tát đỏa
 24.Tát bà tát bà
 25.Ma ra ma ra 
26.Ma hê ma hê rị đà dựng 
27.Cu lô cu lô yết mông 
28.Độ lô độ lô phạt xà da đế 
29.Ma ha phạt xà da đế 
30.Đà ra đà ra 
31.Địa rị ni
 32.Thất Phật ra da 
33.Giá ra giá ra 
34.Mạ mạ phạt ma ra 
35.Mục đế lệ 
36.Y hê di hê 
37.Thất na thất na 
 38 A Ra sâm Phật ra xá lợi 
39.Phạt sa phạt sâm 
40.Phật ra xá da 
41.Hô lô hô lô ma ra 
42.Hô lô hô lô hê rị 
43.Ta ra ta ra 
44.Tất rị tất rị 
45.Tô rô tô rô 
46.Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ 
47.Bồ đà dạ bồ đà dạ 
48.Di đế rị dạ 
49.Na ra cẩn trì 
50.Địa rị sắc ni na 
51.Ba dạ ma na 
52.Ta bà ha 
53.Tất đà dạ 
54.Ta bà ha 
55.Ma ha tất đà dạ 
56.Ta bà ha 
57.Tất đà du nghệ
 58.Thất bàn ra dạ 
59.Ta bà ha 
60.Na ra cẩn trì 
61.Ta bà ha 
62.Ma ra na ra 
 63.Ta bà ha 
64.Tất ra tăng a mục khê da
 65.Ta bà ha 
66.Ta bà ma ha a tất đà dạ 
67.Ta bà ha 
68.Giả kiết ra a tất đà dạ 
69.Ta bà ha 
70.Ba đà ma kiết tất đà dạ 
71.Ta bà ha 
72.Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ 
73.Ta bà ha 
74.Ma bà rị thắng yết ra dạ 
75.Ta bà ha 
76.Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da 
77.Nam mô a rị da 
78.Bà lô kiết đế 
79.Thước bàn ra dạ 
80.Ta bà ha 
81.Án. Tất điện đô 
82.Mạn đà ra 
83.Bạt đà gia 
84.Ta bà ha. 
                                             ***Nam Mô Quan Thê Âm Bô Tát***

Thứ Ba, 23 tháng 6, 2015

                                                  CÔNG ĐỨC của TRÀNG CHUỖI
  Ngài Bảo-Tư-Duy dịch chữ Phạm ra chữ Hán Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt.
    Bấy giờ Ngài Văn-Thù Sư-Lỵ (Manjusri) Pháp-Vương-Tử, Bồ-Tát Ma-Ha-Tát, vì muốn đem lợi ích cho mọi loài hữu tình, nên Ngài lấy tâm đại-bi bảo đại chúng rằng: Các ông nên nghe cho khéo, nay tôi sẽ vì các ông diễn-thuyết về vấn đề “so-lường công đức thụ-trì việc lần tràng hạt (sổ châu) được lợi ích khác nhau thế nào? Và, nếu có ai tụng niệm những thần chú cùng danh-hiệu Phật thời thế nào?” - Vì muốn lợi mình và giúp người, cầu mong mọi pháp chóng được thành-tựu, hiệu-nghiệm, phương pháp lần tràng ấy cần phải như thế này, nên gắng thụ-trì: Nếu ai dùng sắt làm tràng hạt, lần, tụng một lượt được phúc gấp năm lần niệm không. 
     Nếu ai dùng đồng đỏ làm tràng hạt, lần, tụng một lượt, được phúc gấp mười lần niệm không. Nếu ai dùng chân-châu, san-hô... làm tràng hạt, lần, tụng một lượt, được phúc gấp trăm lần niệm không. Nếu ai dùng hạt cây tra (mộc-hoạn-tử) làm tràng, lần, tụng một lượt, được phúc gấp nghìn lần niệm không. (Nếu cầu sinh sang những cõi thanh tịnh của chư Phật cùng muốn sinh lên Thiên cung, nên thụ-trì cỗ tràng này). Nếu ai dùng hạt sen làm tràng hạt, lần, tụng một lượt, được phúc gấp vạn lần niệm không. Nếu ai dùng hạt Nhân-đà-la-khư-soa (8) làm tràng hạt, lần, tụng một lượt, được phúc gấp trăm vạn lần niệm không. Nếu ai dùng hạt ô-lô-đà-la-khư-soa (9) làm tràng hạt, lần, tụng một lượt được phúc gấp nghìn vạn lần niệm không. Nếu ai dùng, hạt thủy-tinh làm tràng hạt, lần, tụng một lượt, được phúc gấp vạn vạn lần niệm không. Nếu ai dùng hạt Bồ- đề làm tràng hạt, hoặc dùng để lần, niệm, hoặc chỉ cầm tay, lần, tụng một lượt, phúc ấy vô lượng, không sao tính kể và khó thể so-lường được. 
 Các thiện-nam! Cỗ tràng bằng hạt Bồ-đề ấy, nếu có người tay tuy cầm tràng, chẳng hay y pháp niệm, tụng danh hiệu Phật cùng thần-chú, song, thường đem theo mình, khi đi, khi ở, khi ngồi, khi nằm, dầu nói thế nào, người ấy do mang giữ hạt Bồ-đề, được phúc cũng như là niệm danh hiệu Phật và tụng thần chú không khác; nghĩa là được phúc vô-lượng. Tràng cầm phải đủ một trăm tám hạt. Như khó tìm đủ được, hoặc làm năm mươi tư hạt hay hai mươi bảy hạt, mười bốn hạt cũng đều dùng được. 
  Đó là pháp-nhân sai khác của tràng hạt. Các thiện-nam! Vì nhân-duyên gì nay tôi chỉ tán-thán việc dùng hạt Bồ-đề được lợi-ích tối-thắng? - Các ông nghe cho khéo, tôi vì các ông nói lại nhân trước của việc này: Xưa kia có đức Phật ra đời và thành ngôi Đẳng-chính-giác ở dưới gốc cây Bồ-đề. Bấy giờ có một người ngoại-đạo mê-tín tà-kiến, hủy-báng Tam-bảo song, người ấy có một người con trai thình lình bị loài Phi-nhân (Quỷ-thần) đánh chết, người ngoại-đạo ấy tự niệm rằng: Ta nay tà thịnh, chửa biết chư Phật có thần-lực gì: Như-Lai đã thành ngôi Đẳng-chính-giác ở dưới gốc cây này, nếu nơi Phật ngồi là Thánh-thụ, thời phải có sự cảm ứng? Nghĩ rồi, liền đem thây người con trai chết ấy để nằm dưới gốc cây Bồ-đề và nói như thế này: “Cây Phật ngồi nếu quả là Thánh-thụ thời con tôi quyết-định được sống lại.” Suốt trong bảy ngày người ấy tụng niệm danh hiệu Phật, con họ được sống lại thực. Sau đó, người ngoại-đạo ấy tán-thán rằng: “Thần-lực chư Phật, tôi chưa từng thấy; cây Phật thành đạo, hiện sự lạ lùng, uy-đức rất lớn, khó thể nghĩ, bàn.” Và, từ đấy những người ngoại-đạo đều bỏ tà quy chính, phát tâm Bồ-đề. Mọi người đều tin và biết uy-lực của Phật không thể nghĩ, bàn được nên đều gọi là cây Duyên-mệnh. Bởi nhân-duyên ấy, cây này có hai tên (Bồ-đề và Duyên-mệnh) các ông nên biết. Và, vì thế tôi mới vì các ông chỉ bảo cho những chỗ cốt yếu về vấn đề này. Ngài Văn-Thù nói những lời ấy rồi, Đức Phật liền dạy rằng: Quý hóa thay, quý hóa thay ông Văn-Thù Sư-Lỵ Pháp-vương-tử! Như lời ông nói, thực không có gì khác cả. Hết thảy đại chúng được nghe sự so-lường về công-đức thụ-trì tràng hạt này, ai nấy đều hoan-hỷ, tín thụ phụng hành. nguồn: Apple Saigon Chính Thức.

  PHẬT NÓI KINH HIỆU-LƯỢNG SỔ CHÂU CÔNG-ĐỨC  

Thứ Tư, 10 tháng 6, 2015

Tài Bảo Thiên Vương

                                     TÀI BẢO THIÊN VƯƠNG
 Soạn dịch: HUYỀN THANH .
   Tài Bảo Thiên Vương, tên Tây Tạng là Lãng Thê Sắc…lại xưng là Tỳ Sa Môn Thiên Vương, Đa Văn Thiên Vương, thuộc một trong bốn vị Đại Thiên Vương, là Ngoại Thần của Đế Thích Thiên. 
 Do hay hộ trì Thế Gian cho nên lại xưng là Hộ Thế Giả. Tên Phạn là Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa), dịch là Đa Văn biểu thị cho tên gọi của Phước Đức vang dội ở bốn phương. 
  Tài Bảo Thiên Vương là một thân biến hóa của Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Vaiśravaṇa) dùng hiện bày thân phần Hộ Pháp Xuất Thế Gian, thân ấy ở cung Liễu Diệp tại phương Bắc trong Tịnh Thổ của Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajra-pāṇi-bodhisatva) cùng với Kim Cương Thủ Bồ Tát có ngọn nguồn rất sâu xa, thuộc vào Bộ thuộc của Kim Cương Thủ Bồ Tát, đồng thời có đủ Phước Đức lớn, chuyên môn bảo hộ tài phú của chúng sinh, lại kèm chức vụ chủ quản tiền tài, tên Phạn xưng là Kubera, là bậc thủ hộ tất cả tài phú trên đời, là vị Thiện Thần trong coi tài bảo phú quý, hộ trì Phật Pháp Thiên Vương Lãng Thê Sắc chẳng những là vị Thần thủ hộ của cõi Trời mà còn là vị Thần Tài Phú của nhân gian, lại xưng là Tài Thần Lãng Sắc. Đấy cũng chính là nguyên nhân mà ảnh hưởng và danh tiếng của Ngài ở đất Tây Tạng, khu vực núi Tuyết vượt hơn hẳn ba vị Thiên Vương còn lại. Trong Tạng Mật, Nam Phương Bảo Sinh Phật và Bắc Phương Bất Không Thành Tựu Phật của Ngũ Phương Phật không có hai không có khác, hóa hiện làm ba loại Hóa Thân chẳng đồng là Ngoại, Nội, Mật để độ hóa hữu tình thời Tài Bảo Thiên Vương là sự hóa hiện bên ngoài (Ngoại Hóa Hiện) lại xưng là Nam Thông Tạ.
   Ngoại Hóa Hiện: là một trong bốn vị Đại Thiên Vương, tên Phạn là Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa) là Ngoại Thần của Thiên Đế Thích, cư ngụ tại Thủy Tinh Đóa ở núi Tu Di (Sumeru), là vị Thần thủ hộ Phương Bắc của Diêm Phù Đề (Jaṃbu-dvīpa), tên là Dạ Xoa Bộ Chủ. Lại do Phước Đức của Thiên Vương vang dội khắp bốn phương nên xưng là Đa Văn Thiên Vương, chức phận chủ yếu là trông coi kho tàng tiền của châu báu trong cảnh Dạ Xoa ở phương Bắc với Sự Nghiệp Bộ (Karma-kulāya) của sự giáng phục, có thể dùng diệt trừ Quỷ Thần, Ác Sát (hung thần ác)gian trá xảo quyệt Nội Hóa Hiện: là Ý của tất cả chư Phật hóa hiện ra Mật Chủ Kim Cương Thủ (tướng phẫn nộ của Đại Thế Chí Bồ Tát) là Tổ Sư rộng truyền Mật Pháp trên Thế Gian Mật Hóa Hiện: Bên trong Pháp Phục Tàng do con Rồng Tát Trữ Ba của Tổ Sư Y Cát Đà lấy ra có ghi chép: Trong vô số kiếp trước đã thành Phật, hiệu là Đa Bảo Phật (Prabhūtaratna-buddha, hay Bahu-ratna-buddha), phát nguyện hiện làm tướng Chuyển Luân Vương (Cakra-varttin-rāja) tiêu trừ mọi loại nghèo túng với mọi loại chướng ngại thuộc tài vật của chúng sinh, viên mãn bảy Thánh Tài () Ngoài ra, ở trong Hán Truyền Phật Giáo thì Ngài là Hóa Thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Ở trong Thần Thoại của Ấn Độ thì Ngài cũng là vị Thiện Thần ban Phước hộ giúp tiền của Y theo Kinh Điển đã ghi chép: Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākya-muṇi) hiện bày Niết Bàn (Nirvāṇa) thời phó chúc cho bốn vị Đại Thiên Vương: “Ở đời vị lai có vua chúa Tà Kiến hủy diệt Phật Pháp thời đều nên hộ trì Phật Pháp”.
    Ngay lúc đó, Thiên Vương đỉnh lễ trước mặt Đức Phật rồi ở trước mặt Đức Phật lập Thệ Nguyện sẽ thống lãnh quyến thuộc, nguyện hộ trì Phật Pháp, bảo hộ cho Đệ Tử của Phật Môn ở phương Bắc, khiến cho Chính Pháp trụ lâu ở Thế Gian, kèm theo cung cấp Tư Lương Tài Bảo cho chúng sinh khiến cho họ thành tựu Pháp Thế Gian.
   Bởi thế, tướng bên ngoài ấy tuy hiển hiện dung mạo Tài Bảo Thiên Vương nhưng thật chất là nơi hóa hiện của Đức Phật Đà. Chung quanh Tài Bảo Thiên Vương có Bát Lộ Tài Thần làm Bộ Thuộc hiệp trợ Tài Bảo Thiên Vương hóa độ chúng sinh nhằm thỏa mãn nguyện ước của chúng sinh, là Thủ Lãnh của chúng Tài Thần
Tài Bảo Thiên Vương có bốn vị Vương Phi, bốn người con, lại có tám vị Đại Dược Xoa thành tựu sự nghiệp, tám vị Đại Long Vương ban cho tài bảo, Ngũ Tính Tài Thần cùng với tám Bộ Trời Rồng, quyến thuộc của các Lộ Tài Thần nhiều vô tận Thiên Vương có thân màu vàng như đồng với một dạng vàng ròng xán lạn huy hoàng. Từ trên thân phóng bắn ra vạn đường tia sáng mãnh liệt, đầu đội mão năm Phật có vàng ròng và đá báu trang sức, trên khôi giáp vàng chóe khoác thêm áo Trời bằng sợi tơ của loài hoa quý. Hai mắt tròn trong, râu tóc mọc đầy ở cổ họng, mặt hơi giận dữ, cỡi con sư tử trắng bờm xanh há miệng lớn, tay phải cầm cây phướng báu chuyển động không dừng, cây phướng báu chuyển động liền liên tục sinh ra tài phú rải bày trên đất chẳng dứt, tay trái ôm một con chồn sóc phun ra vật báu, từ trong miệng của con chồn sóc hay phun ra châu báu chẳng cạn chẳng thể dùng hết được. Thân màu vàng biểu thị cho Pháp Tăng Ích (Puṣṭika) Đầu đội mão năm Phật có vàng ròng và đá báu trang sức biểu thị cho năm Trí của Phật Cây phướng báu chuyển động không dừng biểu thị cho việc ban tài phú và sự đầy đủ cho con người cùng với mưa móc trân quý chẳng thể khuyết thiếu trong Phong Điều Vũ Thuận Con chồn sóc phun ra vật báu biểu thị cho việc hay ban cho tài bảo không cùng tận Cỡi con sư tử trắng bờm xanh há miệng lớn biểu thị cho việc chẳng những có thể giảng nói Phật Pháp mà còn hay phun ra các loại tài vật châu báu Trên thân phóng bắn ra vạn đường tia sáng mãnh liệt biểu thị cho kho tàng của Trời (thiên khố) chứa tài bảo vô tận là sở hữu của Ngài. Chữ chủng tử của Tài Bảo Thiên Vương là: VAI Căn Bản Chú: “Ông, bối hạ oa na dã, thoa cáp” OṂ_ VAIŚRAVAṆAYE SVĀHĀ .
 Chú giải Chú Ngữ: Ông (OṂ): Niệm OṂ là chữ chủng tử, là âm căn bản của năng lượng sinh mệnh nguyên thủy của vũ trụ, âm ấy hàm chứa công năng vô cùng vô tận Bối (VAI): Sự nghiệp thuận lợi Hạ oa (ŚRAVA): giương mở lớn toan tính rộng rãi Na dã (ṆĀYA): Cầu tài mãn nguyện Thoa cáp (SVĀHĀ): mau hay tương ứng _Trường Chú là: TADYATHĀ: HILI MAṆI-BHADRA, HILI MILI MAṆI-BHADRA, KILA MAṆI-BHADRA, KILI KILI MAṆI-BHADRA, KURU MAṆI-BHADRA, KURU KURU MAṆI- BHADRA, TURU MAṆI-BHADRA, TURU TURU MAṆI-BHADRA, SURU MAṆI-BHADRA, SURU SURU MAṆI-BHADRA, CURU MAṆI-BHADRA, CURU CURU MAṆI-BHADRA OṂ_ EHYEHI TIṢTA TIṢṬA, AVADĀRA TIṢṬAḤ MECAYA TADYATHĀ: BUDDHANI BUDHANI, SURA ME SURA DERE, SURA-PUṢPE, HILI MILI SVĀHĀ BÁT LỘ TÀI THẦN Bát Lộ Tài Thần lại xưng là Bát Tuấn Tài Thần, Tài Thần Bát Đại Tướng.
    Tám vị Tài Thần này là Bạn Thần của Tài Bảo Thiên Vương gồm có: Đông Lộ Hoàng Khố Thần, Nam Lộ Hoàng Khố Thần, Tây Lộ Bạch Khố Thần, Bắc Lộ Hắc Khố Thần, Đông Nam Lộ Hoàng Khố Thần, Tây Nam Lộ Hắc Khố Thần, Đông Bắc Lộ Bạch Khố Thần, Tây Bắc Lộ Hoàng Khố Thần…. đều trông coi kho tàng của Trời (thiên khố) ở tám phương, lắng nghe lệnh tế độ cho Hành Giả học Phật bị thiếu tiền của, giải cứu tất cả chúng sinh nghèo cùng khốn khổ. Các vị này có dung mạo mười phần tương tự như Tài Bảo Thiên Vương, thân khoác áo giáp hoa quý, cỡi con tuấn mã đồng với màu sắc của thân mình, tay phải đều cầm một món Pháp Khí, tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu, đều ở tại phương của mình. 
     Tài Thần ở phương Đông là Bảo Tạng Thần (Jambhala), là một vị Thần màu vàng, tay phải cầm châu báu, tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu, cỡi trên con tuấn mã màu vàng Thần Chú là: “Ông, tạng ba lạp trát lệnh trát gia, hồng” OṂ _ JAMBHALA JALENDRĀYE HŪṂ Tài Thần ở phương Đông Nam là Dương Đạt Hiệp, thân màu vàng, tay phải khua múa cây kiếm báu (hay cầm cung tên), tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu, cỡi trên con tuấn mã màu vàng. Thần Chú là: “Ông, tam ba trát na gia, hồng” OṂ _ JAMBHA-JANAYE HŪṂ .) Tài Thần ở phương Nam là Khang Ngõa Tang Bố Tuyết Sơn Thần, thân màu vàng, tay phải cầm cái hộp châu báu, tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu, cỡi trên con tuấn mã màu vàng Thần Chú là: “Ông bố lánh ba trát gia, hồng” OṂ_ PŪRṆA-BHADRĀYE HŪṂ Tài Thần ở phương Tây Nam là Thố Nhiếp, thân màu vàng (hay màu xanh đậm), tay phải cầm cây mâu màu hồng, tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu, cỡi trên con tuấn mã màu vàng (hay màu xanh đậm)
       Thần Chú là: “Ông, cổ hắc nha đáp na gia, hồng” OṂ_ GUHYE-DANAYE HŪṂ Tài Thần ở phương Tây là La Bố Tang Thần, thân màu trắng, tay phải cầm châu báu, tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu, cỡi trên con tuấn mã màu trắng Thần Chú là: “Ông, mã ni ba trát gia, hồng” OṂ _ MAṆI-BHADRĀYE HŪṂ .)Tài Thần ở phương Tây Bắc là A Đan, thân màu trắng vàng, tay phải nâng cung điện (hay cầm Xuân Bồi Thiên Trượng), tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu, cỡi trên con tuấn mã màu trắng vàng Thần Chú là: “Ông, ba trát ca gia, hồng” OṂ_ PAÑCIKAYE HŪṂ Tài Thần ở phương Bắc là Sửu Thân (Kubera), thân màu đen, tay phải khua múa cây kiếm báu, tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu, cỡi trên con tuấn mã màu đen Thần Chú là: “Ông, cổ bối lạp gia, hồng” OṂ_ KUBERAYA HŪṂ Tài Thần ở phương Đông Bắc là Chiêm Bố Khâm Ba, thân màu trắng, tay phải múa cây kiếm báu, tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu, cỡi trên con tuấn mã màu trắng Thần Chú là: “Ông, tỷ trát côn trát lợi gia, hồng” OṂ_ PICI KUṆḌALIYE HŪṂ Tài Bảo Thiên Vương Đàn Thành Thần Chú của Tài Bảo Thiên Vương và Bát Lộ Tài Thần được ghi nhận trong Đàn Thành này là: Trung ương Tài Bảo Thiên Vương OṂ_ VAIŚRAVAṆAYE SVĀHĀ Đông Lộ Tài Thần: OṂ JAMBHALA JALENDRĀYE SVĀHĀ Nam Lộ Tài Thần: OṂ_ PŪRṆA-BHADRĀYE SVĀHĀ Tây Lộ Tài Thần OṂ MAṆI-BHADRĀYE SVĀHĀ Bắc Lộ Tài Thần OṂ_ KUBERAYA SVĀHĀ Đông Nam Lộ Tài Thần OṂ JAMBHA-JANAYE SVĀHĀ Tây Nam Lộ Tài Thần OṂ_ GUHYE-DANAYE SVĀHĀ Tây Bắc Lộ Tài Thần OṂ_ PAÑCIKAYE SVĀHĀ Đông Bắc Lộ Tài Thần OṂ_ PICI KUṆḌALIYE SVĀHĀ Tài Bảo Thiên Vương có uy quang hách dịch giống như tia sáng do mười vạn mặt trời phát ra.
       Ngài có đủ Phước Đức lớn, chuyên môn thủ hộ tài phú của chúng sinh. Ngài chưởng quản sự chuyển hóa Công Đức và Phước Báo của con người, Thế Gian, phát rải tài phú cho nhân gian, hộ trì Phật Pháp, tiêu trừ sự khiêu chiến của Ma Chướng tịnh hóa Trời, Người thành tựu cảnh địa Đại Quang Minh. 
       Ngài có thể dùng các loại thân tướng biến hóa ứng với nhu yếu của người tu trì rồi hay ban cho các loại thành tựu của tài bảo với giáng phục cừu địch…Niệm nhiều tên gọi của Thiên Vương thì có thể được Phước, hoặc là niệm Chú Ngữ của Tài Bảo Thiên Vương thì có thể được gia trì. Tu trì Pháp này có thể lập được Phước Báo Phàm người từng thọ nhận sự Quán Đỉnh của Tài Bảo Thiên Vương. 
          Nếu ở trước mặt Bản Tôn cúng phụng, y chỉ, cầu xin kèm tinh cần trì tụng Tán Từ với Chú Ngữ, thường hành Từ Bi Hỷ xả, khéo hành lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Nhờ do Đại Lực gia trì của Bản Tôn Tài Bảo Thiên Vương với Bát Lộ Tài Thần thì xa lìa các nguy ách chướng nạn, lại chẳng bị tất cả Thần ác, Ma Chướng gây hại, mau mãn các Thắng Nguyện, đắc được Đại Trí Tuệ, Phước Đức Thọ Mệnh tăng thượng, hay ban cho Hành Giả có Tâm Bi tiền của vô tận, tu hành Phật Pháp không có chướng ngại, hưng tịnh sự nghiệp của Thế Gian Pháp, tài nguyên rộng tiến, việc việc thuận lợi, viên mãn không có trở ngại. P/S các bạn thích hình nào nek.

Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2015

Phật Mẫu Chuẩn Đề

      Thân vị Bồ-tát nầy có màu vàng trắng hay màu vàng lợt, ngồi kiết gia trên đài sen, có hào quang tỏa sáng xung quanh, mình mặc thiên y, trên đầu trang điểm ngọc anh lạc. 
     Đầu đội mão báu có ngọc lưu ly rũ treo, có 18 tay đều đeo vòng xuyến khảm Xà Cừ và mỗi tay đều cầm các loại khí cụ biểu thị cho các Tam Muội Gia, gồm có 3 mắt. Vị Bồ-tát nầy chuyên hộ trì Phật pháp và bảo hộ những chúng sinh có mạng sống ngắn ngủi được thọ mạng lâu dài.
    Pháp môn tu hành của vị Bồ-tát nầy là trì tụng bài chú: Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà Câu chi nẫm, đát diệt tha: án, chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. Hiện thân của Chuẩn Đề Bồ Tát có nhiều hình hài, nhưng chân thân của bà được cho là: Bửu tượng có nhiều vẻ quang minh tốt đẹp, đều chiếu diệu cả mình, còn thân tướng thì sắc vàng mà có lằn điển quang trắng. 
    Chỉ ngồi kiết già, trên thì đắp y, còn dưới thì mặc xiêm đều trọn một sắc trắng mà có bông, lại có đeo chuỗi anh lạc và trên ngực có hiện ra một chữ "vạn". 
   Còn hai cườm tay có đeo hai chiếc bằng ốc trắng, hai bên cánh tay trỏ có xuyến thất châu coi rất xinh lịch, lại hai trái tai có được ngọc bửu đương và trong các ngón tay đều có đeo vòng nhỏ. Trên đầu thì đội mão Hoa quang, trên mão ấy có hóa hiện ra 5 vị Như Lai. 
    Khuôn mặt có 3 mắt, mỗi con mắt ấy có ánh nhìn sắc sảo. Toàn thân có mười tám cánh tay, mỗi bên chín cánh. Hai bàn tay ở trên hết thì kiết ấn Chuẩn đề, như tướng đương lúc thuyết pháp. Tay trái thứ hai cầm lá phướn như ý, còn tay mặt cầm cái thí vô úy. 
    Tay trái thứ ba cầm một bông sen đỏ, còn tay mặt cầm cây gươm. Tay trái thứ tư cầm một bình nước, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi Ni ma bửu châu. Tay trái thứ năm cầm một sợi dây Kim cang, còn tay mặt cầm một trái la ca quả. Tay trái thứ sáu cầm một cái bánh xa luân, còn tay mặt cầm một cái búa. Tay trái thứ bảy cầm cái pháp loa, còn tay mặt cầm cái thiết câu. 
    Tay trái thứ tám cầm một cái bình như ý, còn tay mặt cầm một cái chày kim cang. Tay trái thứ chín cầm một cuốn Kinh Bát nhã Ba La Mật, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi dài. Bồ tát Chuẩn Đề ngồi trên tòa sen, dưới có hai vị Long Vương ủng hộ. Chuẩn đề phật mẫu oai linh chú. Tiếng Phạn namaḥ saptānāṃ samyaksaṃbuddha koṭīnāṃ tadyathā oṃ cale cule cunde svāhā Phiên âm tiếng Việt: {{Khể thủ quy y Tô Tất Đế, đầu diện đảnh lễ Thất Câu Chi, Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề, duy nguyện từ bi thùy gia hộ. Nam mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đề câu chi nẫm đát điệt tha Úm, chiết lệ, chủ lệ, Chuẩn Đề ta bà ha}} Dịch nghĩa “ Tôi quy y trước bảy mươi triệu hoàn hảo giác ngộ chư Phật.
    Này đây: Om! chuẩn đề! chuẩn đề! Cầu mong lời nguyện thanh tịnh này có thể là sự thật! Dịch thơ: Cúi đầu quy kính pháp viên thành Đỉnh lễ đủ bảy trăm ức Phật Con nay xưng tán Đức Chuẩn Đề. Nhờ lượng từ bi thương ủng hộ. Trong bộ kinh này, Đức Phật Thích Ca cũng giảng giải về tác dụng của việc tụng bài chú Chuẩn Đề. Bài chú được cho là gắn với khả năng thanh tịnh, nâng đỡ trong tự nhiên và liên quan chặt chẽ đến việc giải thoát cho bản thân. 
     Nếu có tỳ khưu, tỳ khưu ni, ưu bà tắc, ưu bà di nào thọ trì đọc tụng thần chú này mãn 80 vạn biến thì những tội ngũ vô gián đã tạo từ vô lượng kiếp đến nay hết thảy đều được tiêu diệt. 
     Sanh ra chỗ nào cũng gặp chư Phật và Bồ Tát, đời sống tư sanh tùy ý đầy đủ, đời đời thường được xuất gia, trì đủ luật nghi tịnh giới của Bồ Tát, thường sanh nhơn thiên, không đọa ác thú, thường được chư thiên thủ hộ. Nếu có những người tại gia nam nữ thường trì tụng, thì nhà kẻ ấy không có khổ não tai ương, bịnh khổ. Ra làm việc gì đều được hanh thông, nói ra lời gì đều được tín thọ. 
     Nếu tụng thần chú này mãn 10 vạn biến trong chiêm bao thấy được chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác tự thấy trong miệng mửa ra vật đen. Nếu có ngũ nghịch tội thì không được thấy những hảo mộng như vậy. Nên tụng mãn 70 vạn biến thì sẽ được thấy những tướng như trước cho đến mộng thấy mửa ra sắc trắng như sữa, cơm, vân vân thời phải biết người đó tội diệt, được tướng thanh tịnh.